| Tiêu đề:
ĐÔI NÉT VỀ LỊCH SỬ HUYỆN TRÀNG ĐỊNH VÀ TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH QUA CAC THỜI KỲ
Tràng Định được biết đến đầu tiên với tên châu Thất Nguyên, đó là một trong 4 câu “Ki mi” của miền đất Lạng Sơn mà sách Đại Việt sử ký toàn thư và Việt sử lược đã nhắc đến. Các châu Ki mi này do các tù trưởng người dân tộc thiểu số cai quản, quan hệ với triều đình theo lối ràng buộc lỏng lẻo. Lúc bấy giờ tù trưởng các châu, Tô Mậu, Tây Bình… đều họ Vy. Họ Nùng phần lớn ở các châu Thất Nguyên, Quảng Nguyên, Tư Lãng… Thời nhà Lý, các vua ra sức củng cố biên cương, dùng nhiều biện pháp khôn khéo vừa cứng rắn, vừa mềm dẻo để thu phục các tù trưởng người thiểu số, gả công chúa cho châu mục Lạng Châu. 3 đời ông – cha – con họ Thân (trước là họ Giáp) đều là phò mã vua Lý. Lạng Sơn thời Lý là Lạng Châu Lộ. Thời Trần ban đầu vẫn giữ Lạng Châu Lộ sau đổi thành Trấn Lạng Giang. Năm 1937 đổi làm Trấn Lạng Sơn. Đầu thế kỷ 15 quân Minh xâm lược nước ta. Tháng 4 – 1407 Minh Thành Tổ hạ chiếu đổi nước ta làm Quận Giao Chỉ. Tháng 6 cùng năm lập ra 15 phủ, phủ Lạng Sơn khi đó gồm 7 châu, 16 huyện. Châu Thất Nguyên gồm 6 huyện: Thoát, Dung, Pha, Thủy, Lãng, Bình, Cẩm. Tháng 8 năm 1415 năm Vĩnh Lạc thứ 13 sát nhập huyện Cẩm vào huyện Uyên, huyện Tân Yên vào huyện Đơn Ba, huyện Như Ngao vào huyện Khâu Ôn, huyện Bôi Lan của châu Thượng Văn vào Bản Châu. Năm Vĩnh Lạc thứ 17 (1419 sáp nhập huyện Thoát Châu Thất Nguyên vào huyện Uyên, châu Hạ Văn vào châu Thượng Văn, châu Hạ Tư Lãng vào châu Thượng Tư Lãng. Khi đó phủ Lạng Sơn còn 6 châu 11 huyện. Sách Việt sử thông giám cương mục chú rằng: “Năm Quang Thuận thứ 7 (1466) đặt Thừa Tuyên Lạng Sơn có một phủ 7 châu: châu Thất Tuyền 34 xã (Hồng Đức bản đồ). Năm Hồng Đức thứ 21 (1490) đổi làm xứ, đời Hồng Thuận (1509 – 1510) đổi làm trấn. Theo Đào Duy Anh trong “Đất nước Việt Nam qua các đời” thì thừ tuyên Lạng Sơn gồm 1 phủ 6 châu: Châu Thất Tuyền (vốn là châu Thất Nguyên, đời Mạc vì húy Mạc Phúc Nguyên mới đổi làm Thất Tuyền). Sách “Tên làng xã Việt Nam” thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra soạn đầu thời Nguyễn ghi: Xứ Lạng Sơn gồm 1 phủ, 7 châu, 44 tổng, 206 xã, Trang, phố, chợ. Đó là Phủ Trường Khánh, các Châu Ôn, Thoát Lãng, Văn Quan, Văn Uyên, Thất Tuyền, Lộc Bình, Yên Bác. Châu Thất Tuyền có 7 tổng: Hoa Sơn, Kim Tông, Nam Sơn, Bình Quân, Khánh Nham, Nghĩa Điềm, Nghiêm Lật – các phố Khách: Cẩu Pung, Bùng Ỏi, Tân Khư, Long Thịnh, Hoa Sơn. Các trại người Nùng phải nộp thuế bạc: Tham Đa, Bản My, Bản Cam, Khuổi Mô, Đào Ngân, Nà Trà, Yến Càn, Bằng Quân. Năm 1831 Trấn Lạng Sơn đổi thành tỉnh. Đặt chức Lạng Bình tuân phủ cai trị cả hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng. Năm 1834 đổi ba châu Yên Bác, Văn Quan, Thất Tuyền làm huyện. Năm 1835 Minh Mệnh đặt chức lưu quan ở các châu huyện trên toàn tỉnh Lạng Sơn. Quan lại của tỉnh và châu huyện đều do triều đình bổ nhiệm. Trước đó (1828) ở cấp châu đặt thổ tri châu, thổ lại mục, mồi chức một người. Năm 1836 phủ mới - phủ Tràng Định được thành lập do tách từ phủ Tràng Khánh 4 châu huyện phía Bắc là Châu Văn Uyên, Châu Thoát Lãng, huyện Văn Quan, huyện Thất Khê (lúc này Thất Tuyên đã được đổi là Thất Khê). Phủ nha Tràng Định trước đặt ở xã Vĩnh Trại Châu Thoát Lãng. Năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) dời đến xã Đồng Đăng châu Văn Uyên và sau đó năm Tự Đức thứ 18 (1 – 1865) lại dời về xã Lạc Dương, tổng Lạc Dương huyện Thất Khê. Đồng Khánh, sắc chế ngự lãm đã ghi về ly sở phủ Tràng Định như sau: “Ở phía Tây Bắc tỉnh thành thuộc địa phận xã Lạc Dương tổng Lạc Dương huyện Thất Khê, nguyên dựa vào đồn cũ Lạc Dương để xây ly sở, bốn mặt có tường đất bao bọc chu vi dài 146 trượng cao 5 thước ngoài trồng tre”. Khi lập phủ Tràng Định, Thất Khê lúc đó là huyện, năm Thiệu Trị thứ 1 (1841) đổi làm châu có 7 tổng, 47 xã, phố. Sau đó lại đổi làm huyện. Phủ Tràng Định do sách “Đồng Khánh Sắc chế ngự lãm” ghi: Phủ hạt kiêm lý huyện Thất Khê, thống hạt huyện Văn Quan, châu Văn Uyên và châu Thoát Lãng, 29 tổng, 153 xã, thôn, phố, quán. Trong đó có 125 xã người Tày, 18 xã người Nùng, 10 phố người Minh. Phụng chiếu kiểm tra phủ hạt vào năm Tự Đức thứ 5 và thứ 20, nguyên tịch có 175 xã, phố. Bấy giờ bị bọn phỉ cướp phá lưu tán. Năm Tự Đức thứ 27 tra xét lại chỉ có 153 xã phố. Huyện Thất Khê có 8 tổng: Bằng Quân, Khánh Nham, Mỹ Điền, Lạc Dương, Nam Sơn, Đồng Phái, Tú Sơn, Nghiêm Lật. 1. Tổng Bằng Quân có 7 xã, 1 phố: Phố Nghiêu Phong và các xã Bằng Quân, Vĩnh Ân, Bình Kiều, Gia Hội, La Sơn, Chỉ Nghĩa, Khảo Bàn. 2. Tổng Mỹ Điền có 4 xã: Mỹ Điền, Mỹ Huống, Lâm Lang, Trung Bật 3. Tổng Khánh Nham có 5 xã: Khánh Nham, Vũ Lao, Bắc Bình, Cữu Dương, Đồng Luật 4. Tổng Lạc Dương có 4 xã: Lạc Dương, Phi Mỹ, Mông Xá, Hoằng Liệt 5. Tổng Nam Sơn có 4 xã: Nam Sơn, Mỹ Sơn, Vũ Lăng, Quan Oa 6. Tổng Đồng Phái có 6 xã: Đồng Phái, Bình Lâm, Bình Cư, Gia Lộc, Tài Lương, Na Miên 7. Tổng Tú Sơn có 4 xã: Tú SƠn, Quyền A, Vĩnh Điện, Chu Hắc 8. Tổng Nghiêm Lật có 6 xã, phó: Nghiêm Lật, Mậu Đốt, An Khuyến, Vĩnh Lại, Nông Đồn và phố Long Thịnh. Cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20 tổng Bắc Khê gồm hai xã Cao Môn và Bắc Khê được tách từ châu Thạch An tỉnh Cao Bằng nhập vào Châu Thất Khê phủ Tràng Định. Cơ cấu hành chính của tỉnh gồm 2 phủ 7 châu huyện được duy trì cho tới đầu thế kỷ XX. Nhưng trong khoảng thời gian không dài lắm (từ khi lập phủ Tràng Định), các đơn vị xã, phố cũng lắm lần thay đổi, không thể dẫn ra đây hết được. Để tiện tra cứu các địa danh cách nay hơm 100 năm, chúng tôi lập bảng đối chiếu danh sách tổng, xã năm 1890 và 1999. Việc đối chiếu này chỉ có tính tương đối bởi cương vực địa giới các tổng xã xưa và nay không hẳn trùng khớp nhau. Năm 1890 (Theo tài liệu: Trung tâm lưu trữ quốc gia 1) HUYỆN THẤT KHÊ (Phủ Tràng Định kiêm quân) 1. Tổng bình quân có 7 xã: Không có đơn vị tổng - Xã Bình Quân (tục gọi là Nà Kiện) - Xã Kim Đồng - Xã Vĩnh Ẩn (tục gọi Kéo Lậy) - Xã Đề Thám - Xã Gia Hội (tục gọi Nà Noọng) - Xã Đề Thám - Xã Khảo Bàn (tục gọi là Nà Pục) - Xã Chi Lăng - Xã Chỉ Nghĩa (tục gọi Bản Mạy) - Xã Chi Lăng - Xã Bình Kiều (tục gọi là Pò Hội) - Xã Hùng Sơn - Xã La Sơn (tục gọi là Lùng Khẩu) - Xã Đề Thám 2. Tổng Đồng Phái có 6 xã - Xã Đồng Phái (tục gọi Khôn Kính) - Xã Đại Đồng - Xã Gia Phát (tục gọi Nà Bộc) - Xã Đại Đồng - Xã Bình Lâm (tục gọi Bản Pò) - Xã Đại Đồng - Xã Tài Lương (tục gọi gọi Nà Tại) - Xã Đại Đồng - Xã Nà Niên (tục gọi Nà Sảng) - Xã Đại Đồng 3. Tổng Lạc Dương có 2 xã: - Xã Lạc Dương (tục gọi Bản Trang) - Xã Chi Lăng - Xã Phi Mỹ (tục gọi Nà Phi) - Xã Chi Phương 4. Tổng Tú Sơn có 4 xã: - Xã Tú SƠn (tục gọi Nà Chúa) - Xã Hùng Sơn - Xã Vĩnh Điện (tục gọi Bản Nhạn) - Xã Hùng Sơn - Xã Quyên A (tục gọi Bản A) - Xã Hùng Sơn - Xã Chu Hách (tục gọi Thâm Luông) - Xã Hùng Sơn 5. Tổng Nghiêm Lật có 5 xã: - Xã Nghiêm Lật (tục gọi Pò Tất) - Xã Quốc Khánh - Xã Mậu Đốt (tục gọi Bản Giống) - Xã Tri Phương - Xã Nông Đôn (tục gọi Bản Nùng) - Xã Quốc Khánh - Xã An Khuyến (tục gọi Hàng Doỏng) - Xã Quốc Khánh - Xã Vĩnh Lại (tục gọi Bó Châm) - Xã Quốc Khánh 6. Tổng Nam Sơn gồm 6 xã: - Xã Nam Sơn (tục gọi Bản Nằm) - Xã Kháng Chiến - Xã Mỹ Sơn (tục gọi Bản Trại) - Xã Kháng Chiến - Xã Quan Huề (tục gọi Bản Dung) - Xã Kháng Chiến - Xã Vũ Lăng (tục gọi Bản Dồn) - Xã Đội Cấn - Xã Dồng Gia (tục gọi Nà Trà) - Xã Kháng Chiến - Xã Mỹ Thủy (tục gọi Bản Trang) - Xã Đội Cấn 7. Tổng Mỹ Điền có 5 xã: - Xã Mỹ Điền (tục gọi Bản Thệ) - Xã Dào Viên - Xã Cụ Khánh (tục gọi Bản Cụ) - Xã Tân Minh - Xã Trung Bật (tục gọi Bản Bàng - Xã Quốc Việt - Xã Lâm Lang (tục gọi Bản Giốc) - Xã Trung Thành - Xã Mỹ Khảm (tục gọi Bản Khánh) - Xã Tân Minh và Đào Viên 8. Tổng Khánh Nham có 4 xã: - Xã Khánh Nham (tục gọi Phủ Lan) - Xã Quốc Việt - Xã Vũ Lao (tục gọi Bản Sào) - Xã Quốc Việt - Xã Bắc Bình (tục gọi Nà Vũ) - Xã Quốc Việt - Xã Cửu Dương (tục gọi Bằng Cường) - Xã Quốc Việt
Từ năm 1885 Lạng Sơn bắt đầu rơi vào ách đô hộ của thực dân Pháp. Chúng lập ra “Hội đồng hàng tỉnh”, thành phần Hội đồng là những người đứng đầu các phủ châu nhưng thực chất chỉ là bù nhìn. Đứng đầu tỉnh là Tuần phủ Lạng Bằng – tuần phủ Lạng Sơn. Mỗi phủ, châu, huyện có tri phủ, tri châu, tri huyện. Mỗi tổng có chánh tổng, phó tổng. Mỗi xã có lý trưởng và phó lý. Viên chức quan lại trong nha phủ Tràng Định (năm 1885) có 35 người trong tổng số 827 người cả tỉnh gồm: Quyền nhiếp phủ 1 người, bang lý phủ vụ 1 người, lại mục 1 người, thông lại 2 người, lệ đinh 30 người. Song song với hệ thống cai trị hành chính, thực dân Pháp chia xứ Bắc Kỳ làm 2 quân khu lớn. Tiếp đó lại chia 2 quân khu thành 14 khu. Các quân khu lại tiếp tục điều chỉnh. Năm 1891 toàn quyền Đông Dương cho rằng việc bình định Bắc Kỳ chỉ có thể thực hiện được nếu quyền hành chính và quân sự đều tập trung vào tay một người, nên đã ra Nghị định ngày 06/8/1891 thành lập 3 đạo quan binh (ĐQB) còn được gọi quân chính đạo (QCĐ), dưới là các quân khu. Cầm đầu ĐQB là một sĩ quan cao cấp đồng thời là công sứ hoặc phó công sứ đứng đầu tỉnh. Lạng Sơn khi đó thuộc ĐQB thứ 2. Năm 1896, 1900 các ĐQB phân bố lại thì Lạng Sơn thuộc ĐQB thứ 1 gồm 3 quân khu, Lạng Sơn là một quân khu riêng. Quân khu Lạng Sơn cũng như các QCĐ được thay đổi rất nhiều lần. Trong bài “Tiểu dẫn về tỉnh Lạng Sơn” KH 68 – 578 trung tâm lưu trữ quốc gia I có ghi “năm 1902 QCĐ Thất Khê được thành lập đồng thời QCĐ Vạn Linh bị bãi bỏ. Mặc dầu có sự thay đổi, châu Thất Khê vẫn tồn tại với một viên tri châu dưới quyền quan đạo, tạm thời đặt ở khu Cao Phong và một năm sau được đặt cố định ở Phủ hiện nay. ĐQB Thất Khê gồm Châu Thất Khê, đất đai Thạch An, Phục Hòa (Cao Bằng), Bình Gia, Bắc Sơn. Năm 1906 đạo này bị bãi bỏ và thay vào một đại lý sở nhà binh gồm châu Thất Khê, Thoát Lãng, Bình Gia”. - Tháng 7 năm 1940 chuyển tỉnh hành chính dân sự thành QCĐ. - Tháng 10 cùng năm lại bãi bỏ QCĐ, tỉnh lại được đặt dưới chế độ hành chính quân sự. Cơ cấu đơn vị hành chính cũng nhiều lần thay đổi, ví như: - Năm 1907, tháng 4 bãi bỏ phủ còn 9 châu, cuối năm lại tái lập 2 phủ Tràng Khánh và Tràng Định. - Năm 1913 lại bỏ phủ, sau lập lại phủ Tràng Định - Từ 8 – 1939 đến 8 – 1945 đặt 3 phủ 7 châu (lúc này phủ tương đương châu) 3 phủ: Tràng Định, Văn Uyên, Cao Lộc. 7 châu: Lộc Bình, Thoát Lãng, Bình Gia, Bằng Mạc, Bắc Sơn, Đồng Mỏ, Điềm He. Đứng đầu tỉnh là một viên công sứ và một phó sứ người Pháp làm phụ tá. Công việc hành chính liên quan đến người bản xứ đặt dưới quyền một Bố chánh hay Tuần phủ. Viên quan này được sự trợ giúp của một thượng tá, một Thông phán và ba thừa phái. Mỗi phủ có một tri phủ và hai hoặc ba thừa phái: Mỗi châu có một tri châu và hai hoặc ba thừa phái. 2 đồn bang tá: Bình Nhi, Pò Mã. Mỗi đồn có một bang tá. Riêng Bình Nhi có thêm một thừa phái. 5 đại lý sở nhà binh: Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng, Lộc Bình, phố Bình Gia. Ngày 23 - 9 -1925 quyền thống sứ Bắc Bộ Y – Krautheinh đã cùng lúc ký Nghị định số 30431 thành lập thị xã Lạng Sơn và Nghị định số 3043I bis thành lập thị xã Thất Khê, có các phố: Bản Chang, Cốc Cưởm, Hang Đông, Nà Nghiều, Cao Phong và Đoỏng Moóc. Tuy nhiên thị xã Thất Khê đã không đủ điều kiện để phát triển như mong muốn, nên có lúc đã không tồn tại như một đơn vị hành chính độc lập cấp thị trấn. Sau cách mạng tháng 8 – 1945, phủ Tràng Định được đổi thành huyện Tràng Định gồm 18 xã: Đại Đồng (thị trấn Thất Khê nằm trong xã Đại Đồng), Hùng Sơn, Đê Thám, Kháng Chiến, Quốc Việt, Đào Viên, Trung Thành, Đội Cấn, Quốc Khánh, Tri Phương, Chí Minh, Chi Lăng, Tân Tiến, Đoàn Kết, Khánh Long, Tân Yên, Bắc Ái và Kim Đồng. NĂM 1999 Toàn huyện có 22 xã, 1 thị trấn gồm 301 thôn xóm, 5 khu phố. 1. Thị trấn Thất Khê: 5 khu phố từ I đến V Các phố gồm: Đoỏng Moóc, Nùng Ngang, Nùng Dọc, Vàng Cai, Phố Mới, Phố Chính Cai, Xá Cai, Phố Đạo, Cổng Đồn. 2. Xã Đại Đồng: 24 thôn Khau Ngù, Nà Piêng, Pò Bó, Phiêng Luông, Bản Mạ, Nà Nghiều, Bản Mấu, Hang Mạ, Nà Cạn, Nà Sảng, Nà Mậy, Cốc Phát, Nà Trại, Nà Khuất, Khỏn Cà, Pác Cam, Nà Phái, Pác Kéo, Bản Pò, Khắc Đeng, Nà Phục – Hang Nìu, Cắp Kẻ, Nà Vài, Bó Lìn. 3. Xã Hùng Sơn: 14 thôn Thâm Luông, Nà Cà, Bản Chu, Nà Chùa, Thà Tò, Bản Cáu, Bản Coong, Pò Bó, Bản Pifong, Nà Khoang, Bản Piềng, Đông Mẩn, Cốc Vàng, Vài Pải. 4. Xã Đề Thám: 17 thôn Nà Lầu, Pò Mần, Nài Pài, Nà Noọng, Pác Luồng, Bản Cáu, Cốc Tảu, Kèo Lày, Bản Quyền, Nà Ao 1, Nào Ao 2, Nà Căm, Khau Cà, Đoỏng Nà, Lính Đeng, Lùng Khẩu, Cốc Lùng. 5. Xã Chi Lăng: 15 thôn Hang Đông, Xe Lán, Nà Khưa, Kéo Quang, Nà Chát, Cốc Cưởm, Đâu Linh, Bản Tạng, Bản Chang, Nà Puộc, Bản Mạy, Đoỏng Khọt, Đoỏng Lìu, Nà Pàng, Bản Mấu. 6. Xã Tri Phương: 24 thôn Bản Ne, Kéo Tàu, Pá Lầu, Cốc Sầm, Pò Chiêm, Bản Phạc, Tàng Chang, Sộc Mạ, Bản Đoỏng – Khòn Tẩu, Bản Bó, Nà Pài, Nà Phầy, Nà Tốn, Phia Sào, Bản Kị, Bản Soọc, Lũng Sàng, Bản Quyền, Nà Han, Nà Mè, Háng Deng, Bản Đoỏng – Khỏn Nưa, Kéo Quân, Nà Ván. 7. Xã Kháng Chiến: 14 thôn Đoỏng Pán, Pò Loi, Bản Bon, Bản Đuốc, Bản Slủng, Nà Trà, Bản Tấp, Nà Bó, Bản Trại, Bản Piảng, Bản Slàn, Nà Kéo, Bản Nằm, Nà Sẩn. 8. Xã Hùng Việt: 9 thôn Bản Nhàn, Pò Ca, Phạc Dàng, Khuổi Khòn, Phiêng Chuông Pác Các, Đèo Khách, Bản Tét, Hét Khoèn. 9. Xã Quốc Việt: 26 thôn Nà Làng, Nà Ca, Nà Slưa, Nà Nỉu, Bản Túng, Kéo Phấy, Phiêng Lẹng, Bản Sào, Pò Chả, Nà Lình, Nà Sáng, Nà Mạ, Khau Khuyu, Pà Đeng, Pò Mặn, Nà Dài, Phiêng Mò, Bản Sóm, Cốc Muống, Phiêng Mận, Phạc Phù, Pò Lạn, Pác Nặm. Háng Cáu, Nà Pò, Khu Chợ. 10. Xã Kim Đồng: 13 thôn Khuổi Só, Nà Thà, Ven Đin, Khuổi Kệt, Nà Song, Vằng Chạo, Nà Múc, Pác Đông, Cò Vài, Khuối Sượi, Nà Sliêng, Pân Dào, Kéo Vành. 11. Xã Tân Tiến: 11 thôn Pò Cại, Nà Háo, Bản Châu, Pò Kiền, Khuổi Sì, Khuổi Biắp, Khuổi Tù, Tà Chang, Áng Mò, Chòm Po, Khuổi Khoay.
12. Xã Chí Minh: 10 thôn Lũng Phầy, Cốc Toòng, Pác Bó, Thà Lừa, Khuổi Đăng, Khuổi Khuông, Khuổi Dạ, Khuổi Nà, Bản Ca, Nà Quân. 13. Xã Trung Thành: 7 thôn Khuổi Kìn, Bản Phưởng, Bản Vèn, Bản Siền, Pác Pàu, Nà Pục, Nà Lỷ 14. Xã Tân Minh: 12 thôn Bản Slẳng, Bản Cọ, Nà Cuổi, Bản Kiêng, Nà Pùng, Pò Khảo, Bản Chang, Nà Lẹng, Bản Khén, Pò Seo, Nà Poi, Thâm Coong. 15. Xã Đào Việt: 19 thôn Cảo Vài, Bản Chè, Bản Pùng, Bản Chang, Bản Pheng, Pò Túng, Phiêng Sỉnh, Nà Mằm, Bản Bau, Coỏng Luông, Bản Tao, Khuổi Cọ, Nà Khoang, Pác Lạn, Bản Đeng, Phiêng Pirao, Nà Coóc, Bản Kéo, Nà Ỏi. 16. Xã Đội cấn: 6 thôn Bản Chang, Khau Sâm - Nặm Xà, Nà Đon, Kim Ly, Nặm Khoang, Nà Lẹng 17. Xã Quốc Khánh: 28 thôn Long Thịnh, Lũng Toòng, Lùng Xá, Co Sim, Hang Đoỏng, Pò Háng, Bá Phia, Bản Piệt, Nà Bang, Bản Slàn, Bản Slảng, Phai Siết, Thâm Ho, Nà Pàn, Nà Nưa, Bản Dỉ, Pác Bó, Bản Sái, Cốc Phia, Nà Cọn, Pò Chạng, Pò Chà, Bản Phạc, Bản Dáo, Bản Tồn, Bó Luông, Bản Slằng, Pò Cheng. 18. Xã Bắc Aia: 10 thôn Cốc Sầy, Pò Đoỏng, Pò Mổng, Bản Hang, Hang Dường, Khuổi Chíp, Khau Luông, Pác Pèn, Khuổi Vai – Khau Hương, Khuổi Âu – Kéo Lầm. 19. Xã Tân Yên: 10 thôn Phia Khao, Pác Đeng, Khau Mô, Nà Luông, Cốc Tàn, Pác Mười, Nặm Dằm, Kéo Cà, Khuổi Chuẩn. 20. Xã Cao Minh: 8 thôn Vàng Can, Khuổi Vai, Khuổi Nặp, Khuổi Heng, Khuổi Lài, Khuổi Tó, Khuổi Làm, Kéo Danh. 21. Xã Khánh Long: 8 thôn Khuổi Khín, Khuổi Bây, Khuổi Háo, Khuổi Sả, Khuổi Sấy, Khuổi Phụ A, Khuổi Phụ B, Khuổi Sàng. 22. Xã Đoàn Kết: 8 thôn Nà Lửn, Nặm Chắng, Nà Bắc, Nà Phặt, Bản Ẳng, Nà Sẩu, Nà Coóc, Bản Piềng 23. Xã Vĩnh Tiến: 9 thôn Đồng Sào, Phiêng Sâu, Khuổi Hai, Pò Lầu, Khuổi Chang, Khuổi Nháo, Phiêng Han, Pác Quang, Khuổi Suồn. Hiện nay, cả huyện có 1210 công chức hưởng lương. Trong đó có 40 đơn vị bao gồm cả các đơn vị đóng trên địa bàn huyện nhưng không thuộc huyện quản lý và 67 nhân viên hợp đồng.
| |